Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Năm, 2010

Từ BBC

Các phóng viên tại VN năm 1972 (ảnh của Neal Ulevich)

Đợt kỷ niệm ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam lần này, các phóng viên nước ngoài năm xưa lại có dịp hội tụ tại Sài Gòn, nơi họ từng sống và làm việc. Hồng Nga đã tham gia cuộc gặp mặt.

Carl Robinson là một người năng động.

67 tuổi, người cựu phóng viên hãng Associated Press (AP) của Hoa Kỳ vẫn đứng đằng sau các cuộc hội ngộ của giới phóng viên chiến trường Việt Nam và Campuchia những năm 60-70 thế kỷ trước.

Chuyến đi Campuchia và Việt Nam lần này, lúc nào cũng có thể thấy ông Robinson, đầu đội nón rộng vành, mắt đã phải dùng kính lão, nhưng vẫn đi đi lại lại như con thoi, gặp gỡ, ghi chép, trò chuyện và… trả lời phỏng vấn.

Nhóm các cựu phóng viên chiến trường Việt Nam (gọi là các Old Hacks theo tên nhóm trên Google) nay có trên 250 thành viên, nhưng đợt hội ngộ Sài Gòn lần này chỉ có 33 người.

Có người đã mất, như Hugh Van Es của hãng UPI, người từng chụp bức hình di tản bằng trực thăng từ nóc tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, hay các đồng nghiệp Kate Webb và David Halberstam. Có người bệnh tật không thể tham gia chuyến đi xa, như nhiếp ảnh gia Horst Faas.

Phần lớn lớp phóng viên chiến trường Việt Nam xưa đều đã không còn trẻ.

Nhiều tuổi thì hay đa cảm. Thế nhưng những gì làm các phóng viên một thời vào sinh ra tử kia xúc động đến nghẹn lời, thì lại không phải là tuổi tác.

“Việt Nam đã lấy trọn một phần trái tim tôi”

Tim Page quay lại Việt Nam lần này là lần thứ 61.

Sinh năm 1944 tại Kent, Anh quốc, ông Page từng làm việc cho UPI tại Việt Nam và Campuchia những năm 1960. Bị thương vào đầu năm 1969, ông đã lỡ cơ hội tường thuật những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam.

Tim PageTim Page đã quay lại Việt Nam 61 lần

Thế nhưng, thú nhận rằng “Việt Nam đã lấy trọn một phần trái tim tôi”, ông nói: “Đáng ra tôi phải sống ở Việt Nam mới đúng”.

“Mỗi lần về Việt Nam, tôi lại một lần ngỡ ngàng vì cuộc sống ở đây thay đổi quá nhiều.”

Giống như những người bạn phóng viên khác, Việt Nam đối với Tim Page là hiện thân của một thời thanh xuân cuồng nhiệt đuổi theo tin tức, một quãng đời lửa đạn khủng khiếp nhưng lại đáng nhớ nhất trong sự nghiệp của mỗi người.

Ngày 30/4/1975, Carl Robinson đang ở trên chiếc tàu chiến USS Mobile của Hạm đội 7, Hoa Kỳ sau khi sơ tán khỏi Việt Nam bằng trực thăng.

“Khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, tôi tìm một góc vắng trên tàu và ngồi khóc.”

“Tôi ở Việt Nam tổng cộng 11 năm, và tôi thấy mình như mất đi hẳn một phần lớn của cuộc đời.”

Không ai có thể phủ nhận là một cuộc chiến thuộc loại tàn khốc nhất lịch sử loài người là cơ hội trong đời chỉ có một lần đối với các nhà báo.

Nhiều phóng viên chiến trường thời đó đã làm nên tên tuổi khi tường thuật về cuộc chiến Việt Nam: Tim Page, Carl Robinson, Peter Arnett, Neal Ulevich, Richard Pyle, Kate Webb, Hugh Van Es, Horst Faas, David Halberstam, Nick Ut…

Thế nhưng chiến tranh không thể là một bức tranh tươi sáng, và đối với nhiều phóng viên đã kinh qua cuộc chiến Việt Nam, đây là một trải nghiệm gây thương tổn.

“Mất niềm tin”

Mike Morrow, người sáng lập ra Dispatch News Service, nhóm dịch vụ tin tức đầu tiên đưa tin về vụ thảm sát Mỹ Lai, bị chính quyền Sài Gòn trục xuất khỏi Việt Nam năm 1970.

Ông Morrow tiếp tục tường thuật về Việt Nam ngay cả những năm sau chiến tranh, và tham gia tích cực trong tiến trình vận động bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Làm việc cho tạp chí Far Eastern Economic Review và Washington Post tại Hong Kong, ông là nhà báo nước ngoài đầu tiên phỏng vấn ông Nguyễn Cơ Thạch khi ông Thạch trở thành Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam năm 1980.

Carl RobinsonCarl Robinson là người tổ chức cuộc gặp mặt của các Old Hacks

Mike Morrow bị bắt tại Đà Nẵng năm 1990 và sau đó giam giữ gần một tháng tại TP Hồ Chí Minh vì nghi tổ chức gián điệp.

Sau khi được trả tự do vào tháng 5/1990, ông đã từng thề không bao giờ quay trở lại Việt Nam.

Thế nhưng, ông đã có mặt tại TP Hồ Chí Minh trong chuyến đi của các Old Hacks lần này và nói rằng ông “mừng vì đã quay trở lại”.

“Việt Nam và cuộc chiến Việt Nam, những gì tôi chứng kiến đã khiến tôi mất niềm tin vào con người, kể cả bản thân tôi.”

“Tôi đã mang trên mình quá nhiều gánh nặng. Hy vọng sau chuyến đi này, tôi có thể rũ bỏ chúng.”

Trước Việt Nam, các cựu phóng viên cũng đã tới Campuchia, nơi ít nhất 37 đồng nghiệp của họ còn mất tích khi tường thuật tình hình chiến trận tại nước này những năm đầu 1970.

Một đài tưởng niệm nho nhỏ được dựng lên tại Campuchia để ghi nhớ các nhà báo đã ngã xuống trong chiến tranh và họ mong muốn có một tượng đài tương tự ở Việt Nam.

Tổng cộng gần 80 nhà báo nước ngoài thiệt mạng trong cuộc chiến Việt Nam tại ba nước Đông Dương, không kể con số các phóng viên Việt Nam mà tới giờ vẫn chưa có con số chính xác.

Carl Robinson cũng kêu gọi mọi người không quên công lao của các nhà báo Việt Nam.

“Họ là những người dũng cảm và thiệt thòi nhất.”

“Khi làm việc cho hãng tin nước ngoài, tên tuổi của họ thường không được ghi nhận cho dù nhiều lúc, chính họ mới là người thu thập được nhiều thông tin quý giá.”

Read Full Post »

Dạ Ngân

Đáng lẽ chỉ viết vài câu như một “lời bình”, thì sự chân thực và cảm động của tác giả lời tâm sự sau đây lại khiến tôi cũng muốn trút những tâm sự của chính mình mà chưa có dịp nói ra. Có một chi tiết hết sức bất ngờ về cái ngày 30 tháng 4 ba mươi lăm năm trước: trong buổi mít tinh chào mừng ngày “đại thắng” ấy ở trước cửa Nhà Hát Lớn Hà Nội, khi vị chủ toạ (nhớ không nhầm là Thủ tướng Phạm) dõng dạc tuyên bố toàn thắng và ngưng lại đợi tiếng hò reo vỗ tay (như thường lệ), thì hàng vạn con người đứng dưới… im phăng phắc. Thủ tướng đợi khoảng nửa phút, không thấy gì, đành tự vỗ tay bốp bốp. Lúc ấy mọi người mới như tỉnh ra, và vỗ tay theo. Ấn tượng về sự lạ ấy còn ghi khắc trong tôi đến bây giờ.

Nhưng ngay lúc ấy, một linh cảm không vui đã nhói lên trong lòng tôi: từ lúc này, đất nước sẽ phải đối mặt với những gì không đơn giản chỉ là niềm vui hòa bình, thống nhất… Quả nhiên, những gì diễn ra sau đó, suốt 35 năm, đã chứng tỏ linh cảm của tôi không tồi. Trong vai một nhà báo của bên “chiến thắng”, tôi có mặt tại Sài Gòn từ tháng 7 năm 1975, và cũng đã có những câu hỏi không khác gì bạn văn Dạ Ngân của tôi đã có. Vì tôi cũng có hàng trăm người bà con ở phía “chiến bại”. Vì tôi cũng có mặt ở cái trại sáng tác Vũng Tàu của Dạ Ngân. Hơn thế nữa, tôi còn có được sự so sánh những cái hay cái dở của kẻ “chiến thắng” với những cái hay cái dở của kẻ “chiến bại”, và thấy ngay là hóa ra kẻ “thắng” có vô khối cái cần học ở “kẻ bại”, trong đó có cung cách làm ăn, dạy trẻ, đối nhân xử thế, mà càng về sau càng rõ. Bây giờ, thì biết bao cái ta đã làm theo cách những gì “kẻ bại” đã làm, kể cả những cái dở, chỉ có điều hay thì chưa chắc bằng, còn dở thì dở hơn!

Đó là một trong nhiều lý do khiến tôi rất nản với cái cách kỷ niệm 30/4 năm nào cũng thế, cho đến tận bây giờ, vẫn chỉ cốt ồn ào phân biệt “thắng, thua”, khiến vết thương của người “thua” không kịp lên da non, mà kẻ “thắng” nhiều khi thấy sượng (chứ chưa chắc trong lòng thực sự đã “kiêu” đâu!) Tôi lại vừa đọc được một đoạn viết về ngày chiến thắng của quân đội miền Bắc với quân đội miền Nam trong cuộc nội chiến của Mỹ. Sao cách xử sự của người “thắng” bên họ khác ta nhiều đến thế? Không hạ nhục, không cải tạo, tù đày… Tại sao? Chẳng lẽ chỉ có thể ngậm ngùi nói theo ông anh cùng họ (Hoàng): “Cái nước mình nó thế!”

Hoàng Hưng


Đã hơn một lần tôi tái hiện những ngày cuối tháng Tư lịch sử qua những bài viết từ góc độ của mình. Góc độ của một đứa con liệt sĩ bị mồ côi vào năm 10 tuổi, 14 tuổi vào bưng kháng chiến theo cái lý thù nhà nợ nước và sau đó là tất cả những năm tháng xây xước không thể nào quên. Một con người như vậy mà sống sót thì tâm trạng vào tháng Tư năm Bảy Lăm sẽ thế nào? Ngây ngất như thể tái sinh từ một cuộc đại phẩu, nhìn quanh thấy bên thắng và bên thua đều khóc ròng vì một nỗi mừng duy nhất: vậy là thôi súng ống bom đạn rồi, hòa bình rồi, không gì thiêng liêng hơn điều đó!

Mỗi năm kỷ niệm ngày đại thắng tôi lại chăm chú hơn với những thước phim tài liệu phát trên các kênh truyền hình. Càng lùi xa thời điểm ấy thì nhu cầu khám phá lại càng lớn. Cũng phải thôi, cái gì đã thành lịch sử đều trở nên hấp dẫn hơn với hậu thế và nó lớn vụt lên về kích cỡ cũng như những điều nó chưa được mở ra trong lòng nó. Tôi thấy rõ hơn từng giai đoạn tâm trạng của mình. Sau vui tràn thì phải là phơi phới chứ. Đáng lẽ phải là như vậy chứ. Tôi quá mẫn cảm hay dễ lạc quan hay quá “non nớt về chính trị” mà đinh ninh như vậy? Nhưng hình như đã có những sự thật khiến thời gian trăng mật với hòa bình ở trong tôi thật ngắn. Cuộc hôn nhân này có vấn đề gì sao?

Đầu tiên là những giọt nước mắt bàng hoàng của những người vợ lính cộng hòa trong gia tộc mình. Ở miền Nam gia tộc nào cũng có rất nhiều người của bên này và bên kia. Thì ra tiếng những đoàn xe GMC rung chuyển đường phố và những tiếng la ó thảng thốt tôi có nghe thấy trong nhiều đêm liền là tiếng của những người lính thất trận đang bị đưa đi đâu đó một cách bất thần, chính tôi cũng không thể biết. Tôi bắt đầu thấy vị thế hạt bụi của mình từ đó, khi mà mọi thứ với thân phận người đều do ở đâu đó rất cao rất xa làm nên chứ chúng tôi thì can dự được mấy. Trong chiến tranh sống và chết, chúng tôi được bình đẳng hơn nhiều. Sao không có thu xếp khác để có hòa giải thực sự và để dân tộc có sức mạnh mới hơn, thực sự?

Kế đến là những ngày muốn mua một mét vải cũng phải lén lút lách vào một cửa hàng vừa bị cải tạo đang phải bán chui bán nhủi những thứ đã giấu được. Lý thuyết hòa bình rồi cái gì chẳng có rơi từ ngọn cây thiên đường xuống, không còn manh giáp tươi hồng nào. Cứ thế, cải tạo công thương đợt hai rồi đợt ba và những đoàn ghe xuồng nông dân giong buồm lá dừa nước đi dài từ Long An, Tiền Giang, Bến Tre xuống mạn dưới trong cơn tháo chạy địa chấn tập đoàn hóa hợp tác hóa. Một lần nữa từng gia tộc lại cưu mang và vá víu nhau, hạt gạo củ khoai cùng những nỗi niềm có tên là hậu chiến. Hòa bình thật sự được tính bằng năm hay tính bằng tháng mà lòng người loạn ly quá đỗi?

Chưa chi đã lại nghe thấy chiến tranh ở cả hai đầu đất nước. Giang sơn đã toàn vẹn chứ đâu phải năm 1946 mà không khí có vẻ “ngàn cân treo sợi tóc”? Lần này những người “non nớt chính trị” chúng tôi đã vỡ lẽ: thế giới giống như một cái xóm vậy thôi, những nhà giàu bao giờ cũng tìm cách ngồi lại với nhau để định đoạt và những kẻ thấp cổ bé họng luôn bị họ thu xếp theo kiểu nào đó. Thế thôi. Chuyện kẻ giàu sẵn và người chưa giàu, chuyện lòng tham và lòng nhân, chuyện thói đời và bi kịch của khát vọng tiến bộ… Vân vân và vân vân, một nhà văn trẻ ngộ ra, vừa ngỡ ngàng vừa choáng váng.

1982 có lẽ là thời điểm quan trọng nhất trong nhận thức của tôi về cuộc chiến đã qua, về hậu chiến đang bao trùm và về những cụm từ như chủ thuyết, quốc gia và dân tộc. Thật không thể nào quên Trại sáng tác văn học của Hội nhà văn Việt Nam bên một vũng biển vào loại đẹp nhất Việt Nam nhưng vừa có mấy chục cái xác thuyền nhân dạt vô. Rất nhiều xác của đàn bà úp sấp. Chắc các bạn đã hình dung được tâm trạng của lũ nhà văn nhạy cảm chúng tôi trong không khí đó. Thê lương hết cỡ. Xác một bé trai chừng mười tuổi được kéo lên ngay dưới nhà Trại, trên một gộp đá trong lúc chờ Công an tới đem đi. Có bao nhiêu người đang ở các trại cải tạo khắp trong Nam ngoài Bắc? có bao nhiêu con em các doanh nghiệp thành danh phải đi Kinh tế mới? Có biết bao phụ nữ và trẻ em sợ nước đã bước xuống thuyền ra biển để rồi làm mồi cho cá? Có bao nhiêu mạng người đã ngã xuống nữa ở hai đầu biên cương? Một dân tộc vừa bất hạnh và vừa cố chấp với nhau, có lẽ chính vì vậy mà nỗi bất hạnh mới dai dẳng đến thế.

Từ tháng Tư ấy tới lúc nông dân bỏ xứ chạy nạn tập đoàn là 5 năm, từ hiện tượng thuyền nhân đến khi chúng tôi được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hô hào cỡi trói là 10 năm. Từng chặng 5 và 10 năm, đến giờ là 35 năm, chừng ấy thời gian là đã đủ cho nước Nhật thành cường quốc bên cạnh nước Mỹ, thời gian cũng đã đủ cho các em bé sinh ra vào thời khắc hòa bình ấy thành một người đàn ông trang lứa với nhà toán học Ngô Bảo Châu. Số người Việt Nam ra đi và không muốn quay về ngày mỗi tăng lên, kiều hối cũng tăng lên và lòng người vẫn chưa thôi ly tán.

Có cách kỷ niệm nào khác hơn không? Sao cho bên thắng không kiêu mà bên bại cũng không buồn đau mãi. Sao cho người Việt ở khắp nơi hướng con tim vào nhau và nhủ rằng: thôi thì lịch sử, hãy để mọi chuyện phán xét cho đời sau còn chúng ta, hãy cùng cầu siêu cho mọi vong linh trong thời chiến và cả trong thời bình sau ngần ấy năm qua.

Chỉ dám mong có vậy.

DN

Nguồn: http://thanngan.tk/

Tags:

Read Full Post »

BÙI TÍN

Gần đây Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân ở Hà Nội đã mở hội nghị để viết lại tài liệu lịch sử về ngày 30-4-1975, với ý định được tuyên bố là «thuật lại thật chính xác những gì đã xảy ra trong ngày hôm ấy tại Dinh Độc lập giữa Sài Gòn»’.

Thật đáng tiếc là tài liệu được tạo nên có một số điều sai sự thật.

Là một người chứng kiến tại chỗ, tôi buộc lòng phải lên tiếng, không hề vì động cơ cá nhân.

Tôi giữ thái độ trung thực, tôn trọng sự thật đúng như nó có, không tô vẽ gì thêm – không tự vẽ thêm râu ria – cũng không để ai khác nhận vơ những điều chính tôi đã phát biểu.

Trong tài liệu nói trên của Bộ Tổng tham mưu, không hề nói gì đến chuyện tôi, Bùi Tín, lúc ấy là Thượng tá QĐND, cũng là cán bộ cao cấp duy nhất chứng kiến sự đầu hàng của nội các Dương Văn Minh vào buổi trưa và xế chiều ngày 30-4-1975 tại «Dinh Độc Lập».

Tôi không hề mảy may có ý tranh dành tiếng tăm hay vinh dự gì trong thời điểm lịch sử này.

Biết bao liệt sỹ của 2 bên đã nằm xuống, trong đó có nhiều bạn thân, đồng đội, anh em, con cháu trong dòng họ của tôi. Việc tranh dành công trạng là điều tôi coi là xấu xa đáng sỉ nhục.

Nhưng lịch sử là lịch sử. Sự thật lịch sử cần tôn trọng tuyệt đối. Nói sai lịch sử về một số chi tiết có thể gây nghi ngờ về nhiều điều lớn hơn.

Do có những nhận định mang tính chất bôi xấu, vu cáo là tôi đã tự nhận là người nhận đầu hàng của tướng Dương Văn Minh, thậm chí cho là tôi không hề có mặt ngày 30-4 ở Dinh Độc Lập, nên tôi thấy cần nói rõ sự thật chân thực là như sau:

-Tôi đến Dinh Độc lập cùng Trung tá Nguyễn Trần Thiết – phóng viên ban biên tập quân sự của báo QĐND – lúc 12 giờ rưỡi trưa ngày 30-4-1975, sau khi đoàn cơ giới của Lữ đoàn xe tăng 202 của Quân đoàn 2 đột nhập vào trong sân;

-Tôi và Trung tá Thiết ra ngoài cổng Dinh hỏi chuyện vài thanh niên cưỡi xe gắn máy đang tò mò xúm quanh mấy xe tăng, rồi vội vào cùng đi khắp các tầng, các phòng của dinh Độc Lập. Xong chúng tôi tìm ngay chỗ ngồi viết bài tường thuật để gửi gấp về Hà Nội, vì biết rằng ngoài tòa soạn đang mong chờ cho số báo in ngay tối nay.

-Tôi đang viết bài thì Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn 202 và Trung tá Nguyễn Văn Hân, trưởng Ban Bảo vệ của Quân đoàn 2, cùng đến yêu cầu tôi vào gặp nội các Dương Văn Minh. Tôi từ chối việc này, vì tôi không được giao trách nhiệm, lại đang chăm chú lo viết bài báo. Tôi trả lời 2 trung tá: «Các anh nên đưa 1, 2 người ra đài phát thanh để công bố tin toàn thắng đi, nên làm gấp để cả nước và thế giới biết». Sau này gặp lại anh Tùng, tôi mới biết 2 anh trung tá ấy cùng nghĩ rằng cấp trung tá chỉ là cán bộ trung cấp, nên việc làm không đủ giá trị theo quân phong quân kỷ. Họ cần ý kiến một cán bộ cao cấp, mà lúc ấy không có một ai khác là tôi, họ biết tôi là cấp thượng tá, là phó tổng biên tập báo QĐND.

[Cần nói rõ thêm để các bạn ở ngoài quân đội biết là giữa Trung tá và Thượng tá là khác không chỉ một cấp, mà khác hẳn một bậc. Cán bộ sơ cấp từ Thiếu uý lên Đại úy là bậc Sơ cấp, từ Thiếu tá và Trung tá là bậc Trung cấp, từ Thượng tá lên cấp Tướng là bậc Cao cấp. Phân biệt 3 cấp ấy rất rõ, khác hẳn nhau, từ bếp ăn, phòng ngủ, nhà ở, quân phục, tiền lương, sổ mua hàng, lớp học, trường học, hội nghị, tài liệu đều phân biệt rõ.]

Ngay sau đó, Trung tá Bùi Văn Tùng đưa ông Minh ra Đài phát thanh Sài Gòn để loan tin đầu hàng trong vòng nửa tiếng rồi cùng trở về dinh Độc Lập, chờ cấp trên vào; họ chờ nhất là Thiếu tướng Nguyễn Hữu An, Tư lệnh Quân đoàn II. Tôi cũng đã viết gần xong bài báo. Tôi còn nhớ Trung tá Thiết mở hộc bàn giấy của tổng thống lấy ra tờ giấy cứng in Thực đơn của Tổng thống trưa 30-4-1975, trên đó có 2 món chính là: «gân bò hầm sâm» và «cá thu kho mía», đưa cho tôi xem để ghi thêm trong bài báo cho sinh động.

Hai Trung tá Tùng và Hân lại khẩn khoản nói với tôi: họ đang ngồi chờ trong kia, chừng 30 người, các ông tướng chưa ai vô, anh vào gặp họ đi, để họ chờ lâu không tiện.

Anh Thiết bàn với tôi: «Anh vào gặp họ đi, ta cùng vào rồi sẽ viết thêm vài chi tiết, sau ta sẽ vào trại Davis – Tân Sơn Nhất, nhờ tổ thông tin đánh bài báo ra Tổng cục chính trị».

Trung tá Hân dẫn 2 chúng tôi vào phòng họp lớn. Anh Hân, trên cương vị trưởng ban bảo vệ Quân đoàn hiện là người sắp xếp trật tự của dinh Độc Lập. Anh vào trước, báo tin: «Tất cả đứng dậy! Sắp có một cán bộ cao cấp QĐND vào gặp các ông!»

Tôi và anh Thiết bước vào. Phòng khách rộng lớn, ghế ngồi lót dạ đỏ, trên bàn có những cốc nước và mấy hộp hạt đào lộn hột. Anh Thiết ghi tên suốt lượt cả 28 người có mặt, từ các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền đến các ông Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Hữu Có, Bùi Tường Chiểu, Nguyễn Hữu Hạnh, Bùi Hòe Thực, ông Diệp, ông Trường v…v…

Vừa lúc ấy, Trung tá Hân đón tổ quay phim Quân giải phóng (có 2 người) vào. Ông Minh bước tới trước, nói chậm rải:-«Thưa quý ông! Chúng tôi chờ quý ông từ buổi sáng đặng chuyển giao chính quyền».

Tôi đáp ngay: «Các ông còn có gì mà bàn giao; không thể bàn giao khi trong tay không còn có gì!»

Tôi không nói gì đến chuyện đầu hàng vì 2 Trung tá Tùng và Hân đã cho tôi biết ông Minh vừa tuyên bố đầu hàng ở đài phát thanh. Ý tôi muốn nói là không thể có chuyện bàn giao chính quyền, vì tình hình đã ngả ngũ xong xuôi.

Tôi thấy các ông Minh, Mẫu, Huyền, Hảo, Có …đều buồn. Ông Minh cúi hẳn đầu, tôi thấy cằm ông lún phún râu, đường gân 2 bên má co giật nhẹ. Tôi liền an ủi: «Hôm nay là ngày vui. Hòa bình đã đến. Cuộc chiến tranh đã kết thúc. Chỉ có người Mỹ là thua. Tất cả người Việt nam ta là người chiến thắng».

Tôi thấy một số vị gật gật đầu, ông Mẫu nở nụ cười vui vẻ, tán đồng. Tôi liền thêm: «Bất cứ ai có tinh thần dân tộc đều có thể coi ngày hôm nay là ngày vui lớn của mình».

Sau đó tôi mời mọi người ngồi, uống nước, trò chuyện thân mật. Tôi hỏi chuyện ông Minh, sức khỏe ra sao, ngày ông chơi mấy «sét» tennis ? Collection phong lan của ông có bao nhiêu giò rồi? có những loại hiếm quý nào? Ông trả lời hết, vui vẻ, tự nhiên …

Tôi quay sang ông Mẫu hỏi ông từ giã miền Bắc từ hồi nào? Ông còn nhớ gì về vùng quê Chèm Vẽ…nay Cầu lớn Thăng Long qua gần đấy; tôi hỏi về trường Luật ông đang dạy, tôi cũng hỏi ông: Sao tóc ông đẹp, dài vậy, tôi nghe có hồi ông cắt tó phản đối chính quyền ? ông cười, đó là chuyện 2 năm trước, ông luôn mê say với sinh viên trẻ ngành Luật…

Một lát sau, ông Nguyễn Văn Hảo yêu cầu gặp riêng tôi. Tôi cùng ông ngồi cạnh chiếc bàn con bên cửa sổ lớn nhìn xuống sân trước, ông nói: «Tôi là Nguyễn Văn Hảo, giáo sư, phó thủ tướng đặc trách kinh tế, xin báo với riêng ông một tin quan trọng: bọn này đã giữ lại trong kho Ngân khố quốc gia hơn 16 tấn vàng, không cho họ mang ra khỏi nước, mong quý ông báo ra Hà Nội cho người vô nhận…»

Tôi hỏi kỹ lại và tối đó tôi điện ngay cho Thiếu tướng Lê Quang Đạo phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị. Ngày 2-5 Hà Nội cho chuyên cơ IL 18 vào Sàigòn nhận đủ hơn 16 tấn vàng ấy.

Đêm ấy, tôi gửi bài báo «Sài Gòn 30-4: Trong ánh chớp của lịch sử» in trên số báo QĐND ra sáng 1-5-1975, do tổ thông tin của Đoàn đại biểu Mặt trận Giải phóng trong Ban Liên hợp 2 bên trong trại Davis – Tân Sơn Nhất chuyển bằng tín hiệu morse. Đây là bài báo duy nhất gửi được từ Sài Gòn, vì bưu điện bị đóng cửa liền 2 ngày. Fax, điện thoại viễn liên, điện báo đều tắc. Do chuyển bằng morse, tên 2 món trong thực đơn của tổng thống bị sai, «cá thu kho mía» thành «cá thu kho giá» và «gân bò hầm sâm» thành «gan bò hầm sâm»!

Sáng 1-5 tôi gặp các phóng viên Boris Galash (Tây Đức) và Tiziano Terzani (Ý) và nhận chuyển giúp 2 bài báo ngày 30-4 của họ qua con đường Thông tấn xã Viêt Nam ở Hà Nội. Họ mừng rỡ vô cùng vì đó là điều họ lo, sốt ruột nhất. Bài báo đến được Berlin, Bonn và Roma.

Những sự việc trên đây tôi ghi lại thật đúng với thực tế lịch sử.

Trong tài liệu chính thức của bộ Tổng tham mưu, các câu nói của tôi trên đây được đặt trong miệngTrung tá Bùi Văn Tùng (!). Tôi khá thân với anh Tùng, từng ghé thăm 2 vợ chồng anh. Tôi tin là anh Tùng sẽ có thể đến lúc không ngại gì nói rõ sự thật đầy đủ.

Có những nhân chứng còn sống, về những lời nói của tôi trưa hôm ấy, như các ông Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Hữu Hạnh, các ông Diệp, Trường (tôi không nhớ họ)… cũng như tổ phim Giải phóng hay nhà báo Nguyễn Trần Thiết rất ngay thật thẳng tính.

Sự thật là hoàn cảnh ngẫu nhiên đưa đẩy để tôi là cán bộ cấp cao duy nhất của QĐND có mặt tại dinh Độc Lập trong khoảng thời gian từ 12 giờ đến 16 giờ chiều 30-4-1975 để chứng kiến và chút ít tham gia sự kiện lịch sử này.

Vị tướng đầu tiên tôi gặp lúc đã xế chiều ở Dinh Độc lập là Thiếu tướng Nam Long, phái viên của bộ Tổng tham mưu, tôi cùng tướng Nam Long chụp chung ảnh kỷ niệm. Tối mịt Thiếu tướng Nguyễn Hữu An mới đến, khi quanh sân anh em nổi lửa nấu cơm, mỳ ăn liền.

Sở dĩ một số báo nước ngoài cứ nói phóng lên là tôi là người nhận đầu hàng của tướng Minh là vì tướng Trần Văn Trà chủ tịch ủy ban Quân quản Sài Gòn hồi tháng 9-1975 có lần giới thiệu tôi với các nhà báo Nhật, Pháp, Thái lan, Hoa Kỳ … rằng : đây là nhà báo, sỹ quan cao cấp nhất chứng kiến sự đầu hàng của chính quyền Sài Gòn. Rõ ràng «chứng kiến » và «nhận» là 2 điều khác nhau.

Hồi 1989, khi tôi đưa nhà báo Mỹ Stanley Karnow đến gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại nhà khách chính phủ (đường Ngô Quyền), ông Giáp giới thiệu với S. Karnow: Đại tá Bùi Tín là sỹ quan cao cấp nhất có mặt ở Dinh Độc Lập khi chính quyền của tướng Minh đầu hàng.

Từ đó, có thể có người hiểu sai, hiểu lầm cho rằng tôi là người nhận đầu hàng. Cũng có thể có người hiểu sai, cho rằng khi tôi nói «không còn gì để bàn giao» thì cũng có nghĩa là tôi đòi họ phải đầu hàng tôi!

Đã có bài báo tiếng Việt ở Pháp bịa ra rằng: Bùi Tín rút súng chĩa vào nội các Dương Văn Minh, hét mọi người phải giơ tay đầu hàng, rồi bắn loạn xạ lên trời để thị uy, làm phách…!

Tôi không bao giờ nhận một điều gì không phải của mình, không do mình làm.

Hơn nữa, sự có mặt của tôi ngày 30-4 -1975 ở Sài Gòn với hy vọng hòa giải và hòa hợp dân tộc trọn vẹn đã sớm tan thành mây khỏi, với chính sách thực tế của lãnh đạo CS là chiếm đóng, trả thù, đày đọa các viên chức, binh sỹ, đồng bào ruột thịt ở miền Nam, tịch thu quyền sống tự do, có nhân phẩm, nhân quyền của nhân dân cả nước suốt 35 năm nay. Gần 20 năm nay họ để cho bọn bành trướng uy hiếp, mua chuộc, để chúng lấn đất, lấn biển, lấn đảo, giết hại ngư dân ta…

Do tình hình đất nước nguy kịch như thế, đã 20 năm nay, tôi chỉ một điều tâm niệm là góp hết sức thực hiện đoàn kết thống nhất dân tộc, cùng toàn dân đấu tranh dành lại các quyền tự do dân chủ bị một chế độ độc đảng toàn trị tước đoạt hơn nửa thế kỷ nay.

Read Full Post »

May 1, ’10 7:43 AM
for everyone

Bùi Văn Phú


Tôi gặp Vũ Văn Giáo, ở tuổi 34 vào năm 1987, khi làm việc trong trại tị nạn ở Hồng Kông. Anh trước kia là bộ đội được đưa vào Nam chiến đấu và đã có mặt trên những chiếc xe tăng đầu tiên tiến vào Dinh Ðộc Lập trưa ngày 30.04.1975. Gặp được một người lính miền Bắc tiến vào Sài Gòn tôi rất muốn nghe câu chuyện của anh về ngày 30.04 đó.

Giáo nói, khi Chiến dịch Hồ Chí Minh với mục tiêu giải phóng toàn thể miền Nam được phát động, khẩu lệnh do cấp trên đưa xuống vang vang trên máy truyền tin suốt hai tháng trời: “thần tốc thần tốc, tiến mạnh tiến mạnh, thọc sâu thọc sâu”. Anh kể chuyện theo đoàn quân vào giải phóng Sài Gòn với nhiều chi tiết như sự việc còn đang xảy ra trước mắt. Lúc gần vào đến thủ đô miền Nam, khúc chỗ cầu xa lộ Biên Hòa, Giáo chứng kiến vài xe tăng đi trước bị trúng đạn phóng ra từ phía những đơn vị quân đội Việt Nam Cộng hòa. Nhưng có một trường hợp, khi vào gần đến trung tâm thủ đô, một thiếu tá bộ đội trên một xe tăng đi trước bị tử thương, mà anh nói là do chính bộ đội đi sau giết để tranh giành vinh dự được là xe tăng đầu tiên tiến vào giải phóng Sài Gòn.

Chuyện nghe khó tin. Tôi nói với anh, trong hoàn cảnh đó, nhất là ở gần chốt bảo vệ thủ đô Sài Gòn thì xe tăng hay bộ độ trên xe có bị trúng đạn phản công hay phòng vệ của lính Việt Nam Cộng hòa thì cũng là chuyện tất nhiên. Nhưng anh nhắc lại chuyện này hết sức chân thành.

Giáo nói, xe tăng của anh là chiếc thứ tư tiến vào Dinh Ðộc Lập. Vào sân cỏ rồi, bộ đội ngồi chờ trong xe, ở thế sẵn sàng chiến đấu, trong khi mấy sĩ quan và bảo vệ đi vào trong dinh. Sau khi nghe Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, mọi người trong đơn vị reo mừng. Anh và đồng đội được vào trong dinh, thấy mấy lon bia Budweiser mà cứ tưởng là lựu đạn do Mỹ ngụy bỏ lại để gài bẫy. Món quà kỷ niệm duy nhất anh lượm trong dinh là một hộp quẹt zip-po có khắc hàng chữ: “Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu thân tặng.”

Sau độ một tuần ở Sài Gòn, đơn vị của Giáo được lệnh rút về đóng tại vùng biên giới Việt Nam – Kampuchia. Khi mẹ anh lâm bệnh và qua đời ngoài Bắc cấp chỉ huy đơn vị không báo tin cho anh biết. Uất ức vì đất nước đã thống nhất, hòa bình mà anh không được thăm mẹ khi ốm đau, nhìn mẹ lần cuối trước khi bà qua đời, anh quyết định bỏ ngũ. Năm 1981 Giáo vượt biển và đến được Hồng Kông.

Ðó là câu chuyện về ngày 30.04.1975 của Vũ Văn Giáo, một anh bộ đội bình thường.

Trong khi Giáo và đồng đội ở ngoài sân cỏ, bên trong Dinh Ðộc Lập xảy ra cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Dương Văn Minh, một số thành viên nội các của ông và những sĩ quan Quân đội Nhân dân. Những sĩ quan bộ đội nào đã có mặt, chuyện gì xảy lúc đó thì lại có những ghi nhận khác nhau.

Theo David Butler, tác giả của The Fall of Saigon viết vào cuối năm 1984, ghi lại tường thuật của phóng viên Neil Davis, một người Úc biết tiếng Việt làm việc cho hãng truyền hình NBC của Mỹ và có mặt trong dinh lúc bấy giờ thì khi xe tăng đã vào sân cỏ, hai bộ đội trẻ là Pham Huy Do và Pham Huy Nghe (ghi tên không có dấu tiếng Việt theo như trong sách), tay ôm súng, chạy vào trong dinh, leo lên ban công kéo cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam. Xong, Nghe vào trong tìm Tổng thống Dương Văn Minh trong khi Do đi tìm chính ủy. Trong dinh lúc đó có mặt Tổng thống, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo, Bộ trưởng Thông tin Lý Quí Chung. Bộ đội Nghe quát to: “Ai là Dương Văn Minh? Dương Văn Minh hãy bước ra và quì xuống.” Ông Minh không làm theo lời Nghe. Vừa lúc đó thì Do dẫn vào bốn chính ủy, một người tự giới thiệu là Tùng. Tùng ra lệnh cho Nghe cất súng đi. Tổng thống Dương Văn Minh đứng dậy nói: “Chúng tôi đang chờ đợi các ông đến để bàn giao chính quyền.” Chính ủy Tùng trả lời: “Ông không còn gì để bàn giao. Ông chỉ có thể đầu hàng vô điều kiện. Tôi mời ông lên đài để công bố lệnh đầu hàng vô điều kiện”.

Trong Tears Before the Rain, xuất bản năm 1990, tác giả Larry Engelman đã phỏng vấn Ðại tá Bùi Tín, lúc đó còn ở Việt Nam. Ông Tín nói ông là người đã gặp Tổng thống Dương Văn Minh và khi ông Minh nói đang chờ để bàn giao, ông Tín đáp lại: “Không có vấn đề bàn giao quyền hành. Quyền hành của ông đã sụp đổ. Ông không còn gì trong tay để bàn giao, ông không thể chuyển giao cái mà ông không có”.

Lúc đó ông Tín là phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân đi theo đoàn quân để viết phóng sự, không phải sĩ quan chiến đấu tuy ông là người mang quân hàm cao nhất, thượng tá, có mặt lúc bấy giờ. Ðầu thập niên 90, ông Tín nhân một chuyến đi dự hội nghị ở Pháp đã quyết định không trở về Việt Nam nữa.

Trong Vietnam: a History của Stanley Karnow thì câu chuyện về ngày 30.04.1975 ở Dinh Ðộc Lập cũng giống như lời kể của Đại tá Bùi Tín.

Còn Olivier Todd viết trong Cruel April, bản tiếng Pháp ấn hành năm 1987, bản Anh ngữ năm 1990, thì cả Bùi Tín và Bùi Văn Tùng đã có mặt lúc ông Minh nói chuyện bàn giao và Bùi Văn Tùng, lúc đó mang quân hàm thiếu úy hay trung úy, là người đã nói ông Minh không còn quyền hành gì cả để mà bàn giao mà chỉ có đầu hàng.

Thượng tá Quân đội Nhân dân Bùi Tín, bên phải, đang nhận sự đầu hàng của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh. Người đứng cạnh ông Minh là Bộ trưởng Thông tin Lý Quí Chung, rồi đến Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Ảnh do ông Bùi Tín cung cấp cho Larry Engelman, tác giả quyển Tears Before the Rain

Nhiều sự thật, chi tiết về ngày 30.4 ở Dinh Ðộc Lập vẫn chưa được sáng tỏ.

Ngoài những sự việc trên còn chuyện chiếc xe tăng nào đã vào dinh đầu tiên. Báo chí trong nước ghi xe tăng mang số 843 với thủ trưởng Bùi Quang Thận là xe đầu tiên. Xe này bây giờ còn được để trong sân cỏ của Dinh Thống Nhất, tức Dinh Ðộc Lập cũ. Theo Neil Davis thì xe tăng đầu tiên vào dinh mang số 844. Còn Olivier Todd ghi xe tăng số 879 do Bùi Ðức Mai lái đã ủi sập cổng dinh và vào trong sân cỏ trước nhất.

Chuyện ai đã leo lên sân thượng hạ cờ Việt Nam Cộng hòa và kéo cờ của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam lên cũng gây bàn cãi trong nước.

Alan Dawson, tác giả của 55 Days: The Fall of South Vietnam xuất bản năm 1977, ghi rằng một nữ du kích quân đội Mặt trận Giải phóng miền Nam tên Nguyen Trung Kien, 20 tuổi đã làm việc đó. Người du kích này chỉ đường cho xe tăng bộ đội tiến vào Sài Gòn từ hướng Thị Nghè. Cô có mặt trên xe tăng đầu tiên tiến vào ủi sập cổng Dinh Ðộc Lập. Vào trong dinh, tìm đường lên cột cờ nhưng không có ai trong dinh chỉ lối. Sau, cô cùng cựu Tổng thống Dương Văn Minh lên được cột cờ trước tiền đình bằng một cầu thang phía sau, có bộ đội theo sau. Một bộ đội kéo cờ Việt Nam Cộng hòa xuống rồi móc cờ cộng sản, tức cờ Mặt trận Giải phóng vào. Lúc đó là 12 giờ 45 trưa ngày 30.04.1975, chị Kiên trong bộ đồ bà ba đen kéo lá cờ nền xanh-đỏ với ngôi sao vàng lên ghi dấu giờ phút cuộc chiến Việt Nam kết thúc.

Ðã ở lại Việt Nam nhiều tháng sau ngày 30.04, Alan Dawson viết rằng câu chuyện của chị Kien là chuyện của một đứa trẻ mồ côi vì biến cố Mậu Thân, sau theo cách mạng và đã trở thành một đề tài được nhiều người biết đến qua một bộ phim được chiếu trên truyền hình ở Sài Gòn vào cuối năm 1975.

Theo báo Tuổi Trẻ xuất bản cuối tháng 4.1995 nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng miền Nam thì sĩ quan bộ đội Bùi Quang Thận đã dùng dao để cắt giây và treo cờ Việt Cộng lên chứ không phải như có tài liệu đã ghi rằng một bộ đội đã dùng răng cắn đứt giây cờ to bằng ngón tay út. Còn những nhân vật như Nguyen Trung Kien và Bùi Tín có mặt trong dinh sau này không còn được những tài liệu trong nước nhắc đến nữa.

Tiziano Terzani, ký giả người Ý có mặt tại Sài Gòn trong ngày 30.04 và là tác giả quyển Giải Phóng: The Fall and Liberation of Saigon, xuất bản năm 1976, ghi lời bộ đội Nguyễn Trung Tanh kể lại về cuộc tiến quân vào Sài Gòn như sau:

Toán quân của Tanh khởi sự vào lúc 5 giờ sáng từ phía trường Bộ binh Thủ Ðức sau một đêm nhiều giao tranh ở quanh Học viện Cảnh sát Quốc gia, nhà máy xi măng Hà Tiên. Sáu giờ thì đến cầu Long Bình, 11 giờ mới đến cầu Thị Nghè vì trên đường có những cây cầu bị sập và gặp kháng cự của thiết giáp cũng như từ binh lính Việt Nam Cộng hòa. Khi xe đến đường Hồng Thập Tự thì gặp 2 xe tăng M-41 chặn đường, nhưng rồi hai xe tăng đó bị tiêu diệt bởi tăng số 390 và tăng số 843 do Bùi Quang Thận chỉ huy.

Dinh Thống Nhất nay là địa điểm du lịch. Xe tăng mang số 843 còn để trong sân có như một biểu tượng đánh dấu ngày 30.4.1975 (ảnh Bùi Văn Phú)

Vì bị hai tăng M-41 đã hư chắn lối, tăng số 843 quẹo vào đường Mạc Ðĩnh Chi, coi như bị lạc. Thận thấy 2 người lính Việt Nam Cộng hòa trong quân phục hoá trang đứng bên lề đường bèn hỏi: “Dinh Ðộc Lập ở đâu?” Một người không trả lời, còn người kia nói: “Tôi biết.” Thận lột bỏ áo trận của 2 người lính, đưa họ lên xe rồi cho quẹo phải. Nhưng Thận không tin họ. Thấy một cô gái cỡi Honda, Thận đứng thẳng người trên tháp chỉ huy la lớn: “Vui lòng chỉ cho chúng tôi đường đến Dinh Ðộc Lập.” Người con gái nhìn chúng tôi với ánh mắt kinh ngạc. Chắc đây là lần đầu tiên trong đời cô ấy thấy những bộ đội của Lực lượng Giải phóng. “Mấy anh đang trên Ðại lộ Thống Nhất. Dinh kia kìa, ngay trước mặt.” Xe tăng 843 tiến tới Dinh Ðộc Lập. Lúc bấy giờ là trưa.

Thận một tay cầm súng máy, một tay ôm lá cờ Cộng hòa miền Nam Việt Nam vừa gỡ xuống từ ăng ten xe tăng, tiến vào trong dinh thì gặp tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phía sau có Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, Lý Quí Chung, Nguyễn Văn Ba và những thành viên khác của nội các.

Thận lớn tiếng: “Dương Văn Minh đâu?”

“Hãy bình tĩnh. Chúng tôi đã đầu hàng.” Tổng thống trả lời và bước tới phía trước.

Khi Thận hỏi đường lên sân thượng thì Nguyễn Hữu Thái, một sinh viên, chỉ đường cho Thận đi lên. Lá cờ Mặt trận được Thận kéo lên lúc 12 giờ 15 phút.

Chính ủy Bùi Văn Tùng vào đến dinh trễ hơn và đưa Tổng thống Dương Văn Minh đến đài phát thanh để đọc lệnh đầu hàng, lệnh đó do chính ủy Bùi Văn Tùng viết trên một tờ giấy màu vàng.

Còn Lý Quí Chung, bộ trưởng thông tin của chính phủ Dương Văn Minh ghi lại trong Hồi ký không tên của ông, do nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2004, rằng khi bộ độ vào Dinh Độc Lập ông và Tổng thống Dương Văn Minh cùng một số người trong nội các bước ra đại sảnh thì có một bộ đội cầm súng và hô to: “Mọi người giơ hai tay lên.” Tức thì Tổng thống Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và ông cùng giơ tay lên. Rồi một bộ đội yêu cầu ông Minh chỉ đường cho anh ta lên hạ cờ Việt Nam Cộng hòa xuống. Ông Minh đã nhờ ông Lý Quí Chung dẫn đường bộ đội và ông Chung đã làm việc này.

Cựu lãnh tụ sinh viên Nguyễn Hữu Thái, người có mặt tại Dinh Độc Lập và tại đài phát thanh Sài Gòn khi Tổng thống Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng có viết một hồi kí ngắn về những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam nhưng chưa được xuất bản trong nước vì có vấn đề tế nhị. Trên mạng BBCVietnamese.com ngày 19.05.2005 ông Thái kể lúc đó ông gặp Đại tá Nguyễn Văn Chiêm thuộc lực lượng phòng vệ phủ tổng thống và nhờ ông này dẫn giáo sư Huỳnh Văn Tòng, cùng ông và bộ đội Bùi Quang Thận lên sân thượng Dinh Độc Lập để hạ cờ Việt Nam Cộng hòa và treo cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam vào trưa ngày 30.4.1975.

Tại hải ngoại, một người thân với tổng thống Dương Văn Minh có nói đến lệnh đầu hàng do người Mỹ viết sẵn cho ông Minh đọc, thực ra đó là bản tuyên bố sẵn sàng trao quyền đọc vào lúc 10 giờ 30 phút sáng, chứ không phải lệnh đầu hàng đọc vào buổi chiều sau khi xe tăng và bộ đội đã vào Dinh Ðộc Lập và áp tải ông Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh.

Những phim tài liệu trong nước ghi cảnh xe tăng ủi sập cổng Dinh Ðộc Lập, cảnh kéo cờ trên nóc dinh là những cảnh được dàn dựng lại vì khi sự việc xảy ra không có phóng viên từ Hà Nội vào kịp để quay phim.

Chuyện ở Dinh Ðộc Lập trưa ngày 30.04.1975 còn nhiều chứng nhân nữa nhưng chưa được kể lại. Cựu Tổng thống Dương Văn Minh, cựu Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã qua đời, giờ còn cựu Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo trong nội các cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa cũng có mặt trong giờ phút lịch sử đó.


[Bài đã đăng trên talawas.org 03.05.2004, bổ sung tháng 4.2010]


© Buivanphu 05.2004, 04.2010

http://buivanphu.wordpress.com/2010/04/27/dinh-ðộc-lập-trưa-ngay-30-04-1975/

Read Full Post »

Neil Currie – 30/4/2010

35 năm trước đây, sự hiện diện của người Mỹ tại miền Nam Việt Nam kết thúc khi một chiếc máy bay Trực thăng đem theo người di tản rời khỏi sân thượng của Tòa Đại sứ Mỹ tại Sai Gòn. Wayne Corey. Steve Thompson và Phạm Trần, người mà chúng tôi vẫn gọi bằng cái tên ngắn là PT là những Thông tín viên của Đài VOA có mặt ở Sài Gòn trong những ngày đó. Wayne Corey đã nghỉ hưu, nhưng Phạm Trần thì vẫn đang làm việc với chúng tôi và hôm nay họ nói chuyện với Thông tín viên Đài VOA Neil Currie.

Người dân Sài Gòn hoảng loạn tìm cách leo vào Tòa đại sứ Mỹ (hình chụp ngày 29/4/1975)

Hình: ASSOCIATED PRESS

Người dân Sài Gòn hoảng loạn tìm cách leo vào Tòa đại sứ Mỹ (hình chụp ngày 29/4/1975

Cựu Thông tín viên Wayne Corey nói rằng anh ta đã ngỡ ngàng khi biết lực lượng của Quân đội Cộng sản miền Bắc tràn ngập Sài Gòn mà anh vẫn còn kẹt trong thành phố. Anh ta và đồng nghiệp Steve Thompson không biết khi nào thì họ được di tản.

Trong cuộc phỏng vấn của Neil Currie, Thông tín viên Phạm Trần đã mô tả về tâm trạng bất ổn của ông trong những giờ phút sau cùng trước khi Quân đội miền Bắc tràn vào Sài Gòn.

Phạm Trần kể lại rằng, trong thời gian này, tất cả nhân viên của Văn phòng VOA ở Sài Gòn lúc đó và gia đình họ phải tập trung về một địa điểm để chờ được di tản vì họ không thể nào đến được Văn phòng ở trung tâm thành phố.

Nhưng, theo Nhà báo Phạm Trần thì mọi người đã chờ mỏi mắt mà không thấy có chiếc máy bay trực thăng nào của Tòa Đại sứ chỉ định đến bốc họ đi.

Cả Weyne Corey và Phạm Trần đều cho biết cảm tưởng của họ về Việt Nam ngày nay và liệu họ có muốn trở lại Việt Nam không.

Currie: PT, anh có thể cho tôi biết việc gì trong ngày cuối cùng đó đã mãi mãi ghi lại trong ký ức của anh?

Phạm Trần: Tôi nhớ là trong ngày cuối cùng đó, chúng tôi đều bị hỗn lọan tinh thần bởi vì chúng tôi không biết phải làm gì. Chúng tôi không thể đến Văn phòng để làm việc. Tôi được biết lúc đó, các tình báo viên Cộng sản đã có mặt ở khắp nơi trong thành phố, vì vậy mà mọi người chúng tôi, Wayne Corey, Steve Thompson và gia đình tôi phải tập trung tại một Tòa nhà để chờ máy bay Trực thăng đến đón ra Phi trường. Nhưng chuyện này đã không xẩy ra. Sau cùng thì gia đình tôi cũng đã thóat đi được.

Currie: Wayne, còn anh thì nhớ gì về cái đêm hôm đó?

Corey: Nhiều thứ lắm. Vào xế chiều hôm đó thì tôi nghe được tiếng đạn đại bác của quân Bắc việt bắn vào Phi trường nhưng việc di tản người Việt vẫn tiếp tục. Cuối cùng thì Phạm Trần, cô thứ ký Mỹ Bình và gia đình họ đã đi được và đây chính là mối quan tâm hàng đầu của tôi lúc đó.

Như vậy là chỉ còn tôi và Steve Thompson bị kẹt lại, nhưng chúng tôi không rõ là liệu có còn Thống tín viên nào như chúng tôi được di tản không. Đó là điếu tôi lo lắng. Nhưng tôi cũng rất thực tế. Tôi vẫn còn chút Rượu Cognac và tôi cứ ngồi ở đó để uống. Nếu họ tới mà họ bắn tôi thì tôi cũng đành chịu. Đó là điều lảng vảng trong đầu tôi khi ấy, nhưng tôi cũng suy nghĩ về ý nghĩa của sự kiện nếu miền Nam Việt Nam thất thủ, tiếp theo sau sự thất thủ của Nam Vang (Cao Miên) và sự đổ vỡ của một nền hòa bình giả tạo nơi cửa miệng.

Cái ý nghĩ này cứ quay cuồng trong đấu tôi cho đến khi chúng tôi được máy bay trực thăng di tản khỏi sân thượng của Tòa Đại sứ…và khi ở trên nóc Tòa Đại sứ nhìn xuống thành phố Sài Gòn thì tôi nghĩ rằng,nếu cuộc chiến phải kết thúc như thế này thì nó sẽ theo đuổi chúng ta một thời gian rất dài.

Currie: Tôi cũng nghĩ như thế…nhưng các anh có liên lạc gì với những người còn hị kẹt lại ở Sài Gòn không?

Phạm Trần: “Tôi vẫn có những liên lạc với những bạn đồng nghiệp cũ của tôi từng làm việc cho các Báo Ngọai quốc trong thời gian chiến tranh cũng như làm việc cho các báo Việt Nam, nhưng họ không còn được hành nghề như xưa nữa bởi vì sống dưới chế độ Cộng sản thì họ gặp rất nhiều khó khăn.”

Currie: Vậy cuộc sống của họ bây giờ ra sao?

Phạm Trần: “Họ là những người dân bình thường những người khác và họ phải cố gắng tối đa để tồn tại. Rất khó cho những người cựu Phóng viên như họ có thể tìm được việc làm với Nhà nước nhưng tôi nghĩ là họ phải tìm mọi cách để sống còn.”

Currie: Người dân Sài Gòn bây giờ họ gọi tên thành phố đã được đổi tên là gì? Họ có gọi là Thành phố Hồ Chí Minh không?

Phạm Trần:
“À. Người ta vẫn gọi là Sài Gòn. Tên Hồ Chí Minh chỉ có trên giấy tờ mà thôi. Trong thực tế thì mọi người vẫn dùng tên Sài Gòn. Ngay cả những người Cộng sản cũng gọi là Sài Gòn. Bởi vì Sài Gòn là một thành phố biểu tượng cho tự do, một thành phố trù phú và Sài Gòn là Thành phố thương mại và kinh tế trù phú của cả nước Việt Nam bây giờ.”

Currie: Wayne, anh vừa nói là sự kết thúc chiến tranh ở Việt Nam như đã xẩy ra sẽ theo đuổi chúng ta lâu dài. Và sau đó thì cứ mỗi khi Hoa Kỳ tham chiến ở đâu đó thì hình ảnh Việt Nam lại hiện ra, nhưng anh có nghĩ rằng chuyện đó chỉ có thể đã xẩy ra trong thời gian ấy và chỉ ở đó mà thôi không?

Corey: “Tôi nghĩ rằng lối kết thúc chiến tranh Việt Nam như đã xẩy ra là một thất bại ngọai giao rất lớn của Hoa Kỳ. Thật sự thì các họat động quân sự của Hoa Kỳ đã kết thúc từ năm 1973, hai năm trước khi cuộc chiến chấm dứt. Người ta vẫn thường nhắc đến tình hình hỏang hốt và các cuộc di tản hỗn lọai đã xẩy ra kéo theo cuộc đầu hàng cùa Quân đội miền Nam trước cuộc tấn công của quân Cộng sản miến Bắc khi mà lúc đó Hoa Kỳ không còn can dự vào cuộc chiến nữa.

Nhưng sự thật là lần đầu tiên Hoa Kỳ đã thất bại, một thất bại lớn lao. Do đó mỗi khi có hành động quân sự nào đó, chẳng hạn như cuộc chiến tranh ở Afghanistan thì tôi lại thấy có những lo ngại có thể lại xẩy ra một Việt Nam thứ hai. Những chuyện như lãnh đạo của Afghanistan tham nhũng, hay liệu chính sách Quân sự của chúng ta ở đó có đúng không đã được đặt ra. Và tôi nghĩ những vấn đế của cuộc chiến tranh Việt Nam chưa dừng lại ở đây mà sẽ được nhắc lại ở bất cứ nơi nào chúng ta tham chiến.”

Currie: Câu hỏi sau cùng của tôi với hai bạn: Đã 35 năm kể từ khi các anh rời Việt Nam, các anh có nghĩ sẽ trở lại Việt Nam không?

Phạm Trần: “Tôi hy vọng như thế, nhưng ngay bây giờ thì không bởi vì Việt Nam vẫn còn là một nước Cộng sản. Họ biết tôi rất rõ và tôi cũng đã biết họ rất rõ. Tôi có nhiều bạn cũ hiện đang làm việc trong Chính phủ. Tôi không sợ bị bắt nếu trở về, nhưng ngay bây giờ thì tôi không có ý định quay về.”

Corey: “Như anh đã biết là vợ tôi là người Việt Nam. Chúng tôi có 2 con, khi ra đi chúng còn rất nhỏ nhưng bây giờ đã khôn lớn và hai con tôi, vợ tôi và cả các em của vợ tôi cũng đã về thăm Việt Nam. Nhiều người ngọai quốc cũng đã đến thăm Việt Nam. Ngay cả một số Nhà báo từng làm việc ở Sàigòn trong thời gian chiến tranh cũng đã trở lại thăm Nam Vang (Cao Miên) và Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày kết thúc chiến tranh. Có thể họ không đồng ý với tất cả những gì của Ủy ban Nhân dân thành phồ Hồ Chí Minh đang làm nhưng tôi không thấy họ gặp phải khó khăn gì. Tôi không thấy có vấn đề gì đối với người ngọai quốc khi đến thăm Việt Nam. Ngay cả đối với những ngưởi Việt Nam được gọi là “Việt Kiều” cũng vậy. Ngay cả bản thân tôi cũng đã trở lại thăm Việt Nam vào năm 1995. Tôi thấy đã có sự thay đổi khả quan về mặt kinh tế, nhưng nếu hỏi là tôi có muốn trở lại làm việc hay ở lại Việt Nam không thì tôi không có ý định đó.”

Read Full Post »

Trịnh Hội

Khi ngày lễ đánh dấu 35 năm quân đội Cộng Sản Bắc Việt thôn tính Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến gần kề thì đó cũng là lúc hàng triệu người Việt Nam ngày nay chuẩn bị chương trình nghỉ lễ dài hạn cuối tuần bằng cách đi nghỉ mát ở những thành phố nằm cạnh biển, hoặc đối với những người có tiền, có tiếng thì họ sẽ sang những nước láng giềng bên cạnh để thư giãn và tự thưởng cho mình nhờ vào nền kinh tế Việt Nam đã không ngừng phát triển trong suốt một thập niên qua.

Cho đến ngày thứ Sáu 30/04 thì sẽ không còn ai ở lại thành phố mà bây giờ đã đổi tên thành Thành Phố Hồ Chí Minh để ăn mừng ngày cộng sản chiến thắng ngoại trừ các hội đoàn đã được chỉ định, những nhân vật chóp bu trong Trung Ương Đảng, và một lần nữa, một vài ký giả Mỹ còn sống và đã nổi tiếng nhờ vào chiến tranh Việt Nam.

Cách đây 5 năm họ đã trở lại nhân lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày Sài Gòn sụp đổ và lần này họ quay lại một lần nữa để nhớ về một thời cũng như để tưởng niệm 73 đồng nghiệp của họ đã bỏ mình trong cuộc chiến.

Đối với nhiều ký giả đây là quãng thời gian tuyệt vời nhất nhưng cũng đầy trắc trở nhất. David Lamb, ký giả đại diện một thời cho nhật báo Los Angeles Times tại Hà Nội từng thú nhận là cho dù bao năm đã trôi qua nhưng ‘rất nhiều người trong chúng tôi những người từng sang để tường trình về cuộc chiến đã không thể nào thoát khỏi Việt Nam. Không có sự kiện nào, cuộc chiến nào có thể so sánh được.’

Ừ, phải chi cũng nói được như thế đối với chính những người Việt Nam trong cuộc. Vì đối với họ những gì họ phải trải qua trước cuộc chiến, trong cuộc chiến và sau cuộc chiến tệ hại hơn nhiều. Đã có ít nhất một triệu người Bắc lánh nạn vào Nam khi đất nước bị chia cắt qua hiệp định Geneva vào năm 1954. Từ 3 cho đến 5 triệu người Việt đã phải bỏ mình hy sinh từ lúc ấy cho đến năm 1975. Và hàng trăm ngàn người khác trong các trại tù tập trung trên đất nước mới (nhưng nay đã thống nhất), trong những khu kinh tế mới kinh hoàng và khắp Biển Đông lúc họ trên đường mong tìm được tự do.

Có ai trong nhóm ký giả chiến tranh nổi tiếng này, khi nhìn thấy hình ảnh trên TV của những người dân miền Nam đang tuyệt vọng và cố đào thoát trên những chiếc thuyền mong manh, có bao giờ họ tự hỏi: chiến tranh đã chấm dứt nhưng sao họ lại phải chạy trốn hòa bình?

Trịnh Hội

Tôi tự hỏi không biết có ai trong nhóm ký giả chiến tranh nổi tiếng này, khi nhìn thấy hình ảnh trên TV của những người dân miền Nam đang tuyệt vọng và cố đào thoát trên những chiếc thuyền mong manh, có bao giờ họ tự hỏi: chiến tranh đã chấm dứt nhưng sao họ lại phải chạy trốn hòa bình?

Tôi cũng tự hỏi không biết có ai trong nhóm ký giả kỳ cựu này thường tự gọi mình là ‘Những Kẻ Viết thuê Già Việt Nam’ (Vietnam Old Hacks) sẽ có thể tường trình trực tiếp từ Sài Gòn trong tuần này mà không bị cắt xén hoặc kiểm duyệt như điều mà họ đã làm được cách đây gần 35 năm trước khi họ làm phóng sự cho những bản tin nóng nhất của một thời.

Tuy tôi không muốn đánh giá trước khả năng tôn trọng sự thật và sự chính trực của họ đã từng được chứng minh, nhưng tôi e rằng họ sẽ bị ngạc nhiên đến bất ngờ. Vì kể từ đầu năm nay, Hà Nội đã ra lệnh cho các công ty internet ngăn không cho nối trang mạng Facebook, dùng kỹ thuật để đánh sập những trang mạng bị cho là phản cách mạng và cho vào tù những người tài giỏi nhất với tội danh ‘âm mưu hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân’ hoặc ‘tuyên truyền chống đối nhà nước’.

Cũng cần nói là trong tất cả các lần ra tòa chỉ trong 1 hay 2 ngày với mức án từ 3, 5 cho đến 16 năm tù chưa kể thời gian quản thúc tại nhà đã không có một nhân viên sứ quán ngoại quốc hay nhà báo nào được cho vào tham dự. Nhưng tôi thấy cũng lạ là từ lúc ấy cho đến bây giờ đã không có một bài báo nào viết về hiện trạng đất nước Việt Nam và những vi phạm nhân quyền trầm trọng từ bất kỳ phóng viên nào trong nhóm ký giả kỳ cựu này.

Có thể vì kể từ lúc ấy đã không còn giao tranh, người dân Việt Nam không còn bị giết trên chiến trường và vì thế chúng ta nên tưởng niệm. Cũng có thể đối với nước Mỹ, thế giới, và những người còn sống sót trong nhóm ‘Vietnam Old Hacks’ từng trải, phân đoạn cuối đã thật sự kết thúc cách đây 35 năm về trước và họ cần chuyển sang một nơi khác. Như Lebanon, Afghanistan và vũng lầy mới có tên Iraq.

Nhưng để cho là đất nước và người dân Việt Nam đã tìm được tự do và sự công bằng vào năm 1975 thì đấy một là sự lãng quên có cố ý hay, tệ hơn, là một sự thờ ơ sao lãng bổn phận trong công việc.

Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong của tác giả, một luật sư gần đây đại diện cho Bấmtổ chức VOICE khiếu kiện chính phủ Việt Nam với cáo buộc “vi phạm luật quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của công dân”.

Read Full Post »

« Newer Posts